Sunday, October 25, 2009

Kinh Châu Ngọc
(Dhammapada)

Nguyên Tác Anh Ngữ
Ven. Khantipālo
&
Sister Susanna


Sydney, Australia, 1993

Việt Dịch & Chuyển Thơ
Sư Giác Hạnh


Món Quà Pháp Bảo
University of Kelaniya,
Colombo, Sri Lanka
PL. 2551 DL. 18-02-2008


Lời Cảm Tạ

Mùa xuân năm này trú đây,
Chúng tôi tu học vui thay chốn trần.
Tăng đoàn sống trong tình thân,
Cặp mắt từ ái hỷ tâm tràn đầy.
Những ngày sánh học chung thầy,
Đại Học xứ lạ diệu thay đạo mầu!
Giáo lý của Ngài thâm sâu!
Chúng con theo học nhiệm mầu biết bao!
Công lao Ngài, thật thanh cao!
Con nguyện tu học đền trao ân này.
Chính vì nghĩa cử cao dày,
Đệ tử cố gắng tỏ bày hiếu trung.
Kính bạch Ngài! Con vui mừng,
Nỗ lực tinh tấn dịch từng trang kinh.
Sau đó cố gắng chính mình,
Thi hóa lời dạy quý vinh của Ngài.
Hầu mong dâng cúng tận tay,
Đến chư độc giả để thay món quà.
Nhân đây thành thật thưa qua,
Chư ân nhân quý cả nhà hỷ hoan.
Ngài Viện Trưởng, quý vô vàn!
Giúp con chỗ trú lúc sang chốn người.
Cùng những tác giả tuyệt vời!
“Pháp Cú” Anh ngữ dịch lời thực minh.
Việt ngữ dịch rất tận tình,
Ngài Minh Châu quý xứng vinh hiện thời.
Thượng tọa Giới Đức tuyệt vời!
Chuyển tập thơ ấy sáng ngời cú câu.
Bác Phạm Kim Khánh thâm sâu!
Dịch tác phẩm đó nhiệm mầu tuyệt siêu!
Tri ân tiến sĩ Bình nhiều!
CD Phật học trăm điều tiện nghi.
Sư Bạn[1] Miến,[2] thật diệu kỳ!
Giúp đỡ pháp lữ những gì cần trao.
Công lao Bạn, quý làm sao!
Tôi nguyện nhớ mãi không sao quên Người!
Chư phật tử khắp mọi nơi,
Dày công giúp đỡ suốt thời tăng sinh.
Chúc chư vị mãi hạnh vinh!
Sống lâu sắc tốt như mình từng mong.
Kính tri ân! Người hỷ lòng,
Con nguyện tu học góp công tô đời.



Vài Nét Tiểu Sử Tác Giả

Quê hương tôi đã sinh ra,
Không gần thành thị lại xa phố phường.
Trí tuệ cũng tạm bình thường,
Toán không được giỏi, văn thường chẳng thông.
Hai mươi tuổi, tôi nuôi mộng,
Y vàng Thượng Sĩ[3] tà rộng thích mang.
Ngày đêm quyết chí lìa trần,
Tu hành học đạo để thâm pháp mầu.
Thế đời phải giấc mơ đâu?
Cha tôi chẳng muốn nên đâu xin giùm.
Mẹ tôi dễ mến vô cùng,
Bà rất hoan hỷ vui mừng cho con.
Từ đó phân tích cùng chồng,
Con đi học đạo xứng tông môn mình.
Tuy nhiên bố vẫn lặng thinh,
Bởi vì ái thủ quấn tình cha con.
Cuối cùng tôi chạy lon ton,
Nhờ người giúp đỡ để mong thoát trần.
Khuôn hội có Chú tận tâm,
Đồng ý giúp đỡ vào tận cố đô.
Tìm chùa để dẫn tôi vô,
Xuất gia tu học điểm tô tâm lành.
Tám năm học đạo rất nhanh,
Thế mà không trụ ở quanh quê mình.
Rồi một ngày, rất quang vinh,
Tôi đã rời gót sang bình thái dương.
Học tu cũng khá tận tường,
Có người trợ giúp trên đường công danh.
Tôi nguyện mãi sống trong thanh,
Để mà đền nghĩa người dành cho tôi.
Và nguyện hằng sống đơn côi,
Cho tròn mộng ước của tôi ban đầu.
Thấm thoát thời gian trôi mau,
Mới đây đã quá mười tám năm trường.
Nhưng tôi vẫn mãi tư lương,
Gắng đi cho trọn đoạn đường vị lai.
Như vậy xứng đệ tử Ngài,
Dự hàng Tăng chúng trong đai gian trần.


Lời Nói Đầu

Người ơi! Dịch thơ khó làm!
Bởi vì lẽ đó tránh sao khỏi nhầm.
Chính mình tự nhủ nghĩ thầm,
Thơ tôi phỏng dịch có phần bị sai.
Với tài mỏng, đức chẳng dày,
Thật lòng cung thỉnh danh tài chỉ cho.
Vốn tôi không phải nhà nho,
Xin nhờ các bậc cao phong đức dày.
Thật tâm chỉ rõ cho hay,
Để lần tái bản sau này tốt hơn.
Thành tâm kính đa tạ ơn!
Những ai đã giúp tô sơn thơ này.
Nhân đây thành thật chấp tay,
Đảnh lễ đa tạ đức dày Thế Tôn.
Và xin dâng đến Tăng môn,
Phước đức nho nhỏ con dồn từ lâu.
Chia đến Cha Mẹ ân sâu,
Và luôn những bạn đạo mầu xuất gia.
Dâng lên thân quyến gần xa,
Phước đức tôi đã dịch ra thơ này.
Cầu mong hết thảy chúng sanh,
Chóng lìa thoát khổ tử sanh luân hồi.
Chúc quý vị, mãi vui tươi,
Sống trong chánh pháp muôn đời an vui.
Mong chúng sanh, mỉm môi cười,
Cuộc đời tự tại rạng ngời tương lai.
Xin người theo dấu Như Lai,
Tiến về giác ngạn xứng vai con Ngài.
Thầy trò chúng ta vui vầy,
Như cây với cội chung xây Thánh đường.[4]


Mục Lục

Lời cảm tạ
Vài nét tiểu sử tác giả
Lời nói đầu
1. Phẩm song yếu
2. Phẩm không phóng dật
3. Phẩm tâm
4. Phẩm bông hoa
5. Phẩm người ngu
6. Phẩm người trí
7. Phẩm A-la-hán
8. Phẩm ngàn
9. Phẩm ác
10. Phẩm hình phạt
11. Phẩm già
12. Phẩm tự ngã
13. Phẩm thế gian
14. Phẩm Phật Đà
15. Phẩm an lạc
16. Phẩm hỷ ái
17. Phẩm phẫn nộ
18. Phẩm cấu uế
19. Phẩm pháp trụ
20. Phẩm đạo
21. Phẩm tạp
22. Phẩm địa ngục
23. Phẩm voi
24. Phẩm tham ái
25. Phẩm tỷ kheo
26. Phẩm Bà-la-môn
Tài liệu tham khảo
[1] Đại Đức Tejinda (from Myanmar).
[2] Miến Điện (Myanmar).
[3] Chiếc Y Cà Sa của Như Lai.
[4] Ngôi nhà của những bậc Thánh.

I. Phẩm Song Yếu

1.
Các pháp ý dẫn đầu,

Ý làm chủ, bắt cầu,

Với ý ô nhiễm sâu,

Hành động hay nói thao,

Khổ não bước theo sau,

Như xe theo bò thau.[1]

2.
Các pháp ý dẫn đầu,

Ý làm chủ, bắt cầu,

Với ý thanh tịnh sâu,

Hành động nói thâm cao,

An lạc bước theo sau,

Như bóng quấn hình nhau.

3.
Nó đánh ta, mắng ta,

Thắng rồi, còn cướp la,

Ai ôm hiềm hận xa,

Hận thù thấm tâm ta.[2]

4.
Nó mắng ta, đánh ta,


Thắng rồi còn cướp la,


Khôn ngoan xả hận ra,


Hận thù sẽ bay xa.

5.
Với hận diệt hận thù,


Hiện đời xa mịt mù.


Từ bi diệt hận thù,


Chính định luật ngàn thu.

6.
Những người khác không biết,


Chúng ta rồi phải chết,


Ai hiểu được chi tiết,


Tranh luận lắng khôn xiết.

7.
Ai sống nhìn tịnh tướng,


Các căn không nội hướng,


Ăn uống luôn luôn vướng,


Biếng nhác, không tinh cường.


Ma uy hiếp bị thương,


Như gió thổi cành dương.

8.
Ai sống quán bất tịnh,


Khéo hộ trì căn tính,


Ăn uống xem nhẹ khinh,


Có hạnh tinh, đức tín,


Ma không uy hiếp, khinh,


Như núi đá vững mình.

9.
Ai mặc áo cà sa,


Tâm uế nhơ cả phà,


Không tự chế, thật thà,


Sao xứng áo cà sa.

10.
Ai rời uế trược ly,


Giới luật khéo nghiêm trì,


Tự chế, sống thực thi,


Cà sa xứng mang đi.

11.
Không chân, tưởng chân thật,


Chân thật, thấy không thật,


Chúng không đạt chân thật,


Do tà, tư duy trật.

12.
Chân thật, biết chân thật,


Không chân biết minh phân,


Chúng đạt được thật chân,


Do chánh, tư duy thật.

13.
Như căn nhà vụng lợp,


Mưa rào rơi đột ngột.


Cũng vậy tâm bộp chộp,


Tham dục rình rập ôm.

14.
Như căn nhà khéo lợp,


Mưa không rơi đột ngột.


Cũng vậy tâm khéo tôi,


Tham dục khó viếng chơi.

15.
Nay sầu, đời sau sầu,


Kẻ ác, hai đời thâu;


Y sầu, y ưu rầu,


Thấy nghiệp uế đầy tàu.

16.
Nay vui, đời sau vui,


Làm phước, hai đời vui,


Y vui, y an vui,


Thấy nghiệp thiện ngọt bùi.

17.
Nay than, đời sau than,


Kẻ ác, hai đời than,


Nó than: ‘Ta làm càng’


Ðọa cõi dữ, thở than.

18.
Nay sướng, đời sau sướng,


Làm phước, hai đời sướng.


Nó sướng: ‘Ta làm gương’,


Sanh cõi lành, hạnh trường.[3]

19.
Nếu người nói nhiều kinh,


Chẳng hành trì thật tình;


Như kẻ chăn súc sinh,


Không phần Sa môn vinh.

20.
Dầu nói ít kinh điển,


Nhưng hành pháp trường miên,


Tham, sân, si bỏ liền,


Tỉnh giác, tâm thoát riềng,


Không chấp thủ hai thiên,[4]


Dự phần Sa môn nguyên.

II. Phẩm Không Phóng Dật

21.
Không phóng dật, sống hoài,


Phóng dật là chết dai.


Không phóng dật, sống mãi,


Phóng dật như chết dài.

22.
Biết rõ sai biệt này,


Người trí không phóng dai,


Hoan hỷ, chẳng phóng dài,


An hạnh bậc Thánh hoài.

23.
Người thường tu thiền định,


Hằng kiên trì tấn tinh.


Niết-bàn hưởng Trí minh,


Ðạt vô thượng an tịnh.

24.
Nỗ lực, giữ chánh niệm,


Tịnh hạnh, hành tinh chuyên,


Tự điều, trú pháp hiền,


Ai sống không huyên thiên,


Tiếng lành tăng liên miên.

25.
Nỗ lực, không phóng dật,


Tự điều, khéo chế thân.


Bậc trí xây đảo tầng,


Nước lụt khó ngập dâng.

26.
Chúng ngu si, thiếu trí,


Chuyên sống đời phóng ly.[5]


Người trí, không phóng di,


Như giữ tài sản quý.

27.
Chớ sống đời phóng dật,


Chớ mê say dục trần.


Không phóng dật, thiền thâm,


Ðạt được an lạc tầng.

28.
Người trí dẹp phóng dật,


Sống hạnh không phóng dật,


Leo lầu trí tuệ sâu,


Không sầu, nhìn khổ âu,


Bậc trí đứng núi cao,


Nhìn kẻ ngu, đất ngâu.

29.
Tinh cần giữa phóng túng,


Tỉnh thức giữa mê quân.


Người trí như ngựa thuần ,


Bỏ sau ngựa yếu chân.

30.
Ðế Thích[6] không phóng dật,


Ngôi vị Thiên chủ đạt.


Không phóng dật, khen vang,


Phóng dật, thường trách than.

31.
Say mê không phóng dật,


Tỷ kheo sợ phóng thân,


Bước đi như lửa vầng ,


Thiêu kiết sử lớp tầng.

32.
Say yêu không phóng dật,


Tỷ kheo sợ phóng thân,


Thối đọa chẳng dễ lâm,


Niết-bàn nhất định gần.

III. Phẩm Tâm

33.
Tâm hoảng hốt, động rung,


Khó hộ trì, tập trung,


Người trí làm tâm sung,


Như thợ nắn tên cung.

34.
Như cá quăng lên bờ,


Vất ra ngoài đất khô;


Tâm bay nhảy nhấp nhô,


Hãy đoạn lực Ma xô.

35.
Khó nắm giữ, khinh động,


Theo dục lạc xoay vòng.


Lành thay, điều tâm trong,[7]


Tâm điều, an lạc ròng.

36.
Tâm khó thấy, tế nhị,


Theo dục lạc cuồng si.


Bậc trí phòng tâm vi,


Tâm hộ, an lạc kỳ!

37.
Chạy xa, sống một mình,


Không thân, nằm im lìm,[8]


Ai điều phục tâm tính,


Ma dễ đâu trói mình.[9]

38.
Ai tâm không an định,


Không biết diệu pháp xinh,


Tịnh tín bị rung rinh,


Trí tuệ không viên minh.

39.
Tâm không đầy ắp dục,


Tâm chẳng hận thôi thúc,


Ðoạn thiện ác thuần thục,


Người tỉnh khó hãi hùng.

40.
Hiểu thân như gốm sứ,


Trú tâm như thành cừ,


Chống Ma bằng tuệ tư,


Giữ chiến thắng[10] tham trừ.[11]

41.
Không bao lâu thân này,


Nằm sõng soài đất dày,


Vô thức, vất bỏ đây,


Như khúc gỗ mục thây.

42.
Kẻ thù hại chính tha,[12]


Oan gia hại anh ta,


Không bằng tâm hướng tà,[13]


Gây ác cho thân ta.

43.
Ðiều mẹ cha bà con,


Không có thể làm tròn,


Tâm hướng chánh sắc son,


Làm được tốt đẹp tròn.

IV. Phẩm Hoa

44.
Ai chinh phục đất này,


Dạ ma, Thiên giới đây?


Ai giảng Pháp cú hay,


Như người[14] hái hoa tài.

45.
Hữu học thắng đất này,


Dạ ma, Thiên giới đây.


Hữu học khéo trình bày,


Như người hái hoa hay.



46.
Hiểu thân như giọt sương,


Ngộ nó tợ khói hương,


Bẻ tên hoa Ma vương,


Vượt mắt Thần chết trường.

47.
Người hái những hoa tươi,


Ý đắm say, nhiễm đời,


Bị Thần chết đánh tơi,[15]


Như lụt cuốn làng trôi.

48.
Người hái những hoa tươi,


Ý đắm say, nhiễm đời,


Các dục chưa thỏa hơi,


Ðã bị chết chinh rồi.

49.
Như ong đến với hoa,


Sắc hương không hại mà,


Hút nhuỵ bảo vệ hoa.


Như Thánh viếng làng ta.

50.
Không nên nhìn lỗi người,


Tha làm hay ngồi chơi.


Nên xem mình mà thôi,


Có làm hay nhác lười.

51.
Như hoa đẹp lạ thường,


Sắc tuyệt nhưng không hương.


Cũng vậy, lời ngọt đường,


Không làm, quả khó hưởng.

52.
Như hoa đẹp phi thường,


Sắc tuyệt cộng thêm hương;


Cũng vậy, lời ngọt đường,


Có làm, quả sẽ hưởng.

53.
Như đống hoa tràn đầy,


Nhiều vòng hoa kết xây.


Tợ thân sanh tử nầy,


Nhiều thiện sự đắp xây.

54.
Hương thơm các loài hoa,[16]


Đâu ngược gió bay xa?


Hương đức hạnh con Ta,


Tung bay lan mọi nhà,


Bậc chân nhân cao cả,


Tỏa khắp tứ phương xa.

55.
Hoa già la, chiên đàn,


Hoa nhài quý, sen vàng.


Giữa những hương hoa đang,


Giới hương vô thượng sang.

56.
Giá trị thấp hương này,


Già la, chiên đàn khay;


Hương đức hạnh tuyệt thay!


Cao thượng Thiên giới bay.

57.
Giữa ai có giới hạnh,


An trú sống tịnh thanh.


Chánh trí, giải thoát nhanh,


Nẻo đường Ma khó phanh.

58.
Như đống rác hôi tanh,


Quăng bỏ bên vỉa thành,


Nơi ấy sen trắng xanh,


Thơm, đẹp ý người quanh.

59.
Cũng vậy giữa quần sanh,


Uế nhiễm, mù, tục tánh,


Ðệ tử bậc Vinh Hạnh,


Tuệ Tri sáng soi quanh.

V. Phẩm Ngu

60.
Ðêm dài với kẻ thức,


Dặm trường người kiệt sức,


Luân hồi kẻ vô thức,


Không hiểu diệu pháp thực.

61.
Tìm không được bạn đường,


Bằng mình hoặc cao cường,


Thà quyết sống đơn phương,


Kẻ ngu chẳng chung đường.

62.
“Con tôi, tài sản tôi”,


Người ngu sanh ưu rồi,


Chính ta, chẳng thật tôi,


Tài, con đâu? than ôi!

63.
Người ngu nghĩ mình ngu,


Chính vậy trí thiên thu.


Ngớ ngẩn tưởng trí tù,[17]


Thật mới gọi cực ngu.

64.
Người ngu, dầu trọn đời,


Thân cận bậc trí thôi,


Không biết pháp tuyệt vời,


Như muỗng tô canh tươi.

65.
Người trí, dù khắc thời,


Chỉ gần bậc trí thôi,


Biết diệu pháp tuyệt vời,


Như lưỡi nếm canh tươi.

66.
Người ngu si thiếu trí,


Tự ngã thành thù ghi.


Làm các nghiệp đen sì,


Quả khổ chịu mọi khi.

67.
Nghiệp làm không thiện lành,


Ăn năn, hối hận sanh,


Mắt nhuốm lệ, quanh vành,


Dị thục quả chua chanh.

68.
Nghiệp làm chánh thiện lành,


Ăn năn đâu có sanh,


Hoan hỷ, ý đẹp thanh,


Quả dị thục viên thành.

69.
Người ngu nghĩ ngọt lành,


Khi ác quả chưa thành;


Ác nghiệp chín tăng nhanh,


Người ngu khổ đau hành.

70.
Tháng này, tháng nọ hành,


Người ngu ăn cỏ xanh[18]


Không bằng người tuệ nhanh,


Thông hiểu giáo pháp rành.

71.
Nghiệp ác đã làm xong,


Như sữa, không vội đông,


Cháy ngầm kẻ mê ngông,


Như lửa tro ngấm lòng.

72.
Chính nó chịu bất hạnh,


Khi kẻ ngu được danh.


Vận may bị tan tành,


Ðầu nó vỡ nhiều manh.

73.
Ưa danh chẳng xứng tương,


Ngồi trước chư tăng dương,


Thích quyền trong tu đường,


Mong mọi người lễ thương.

74.
“Mong cả hai tục, tăng,


Nghĩ rằng (chính ta chăm).


Việc lớn nhỏ, lăn tăn,


Phải theo lệnh ta dặn”


Người ngu nghĩ nông cạn,


Dục và mạn tăng tràn.

75.
Một đường đến lợi trần,


Đường khác Niết-bàn phân.[19]


Đệ tử Phật, tăng thân,


Hãy thấu hiểu sâu thâm.


Chớ ưa thích cúng dâng,


Hạnh viễn ly tinh cần.

VI. Phẩm Hiền Trí

76.
Mỗi khi bậc trí minh,


Chỉ lỗi, khiển trách mình,


Như chỉ hủ vàng xinh,


Nên gần bậc cao minh!


Giao thiệp như vậy vinh,


Tốt tăng trưởng, xấu chìm.

77.
Những ai hay khuyên dạy,


Ngăn tha ác diệt ngay,


Người lành sẽ kính lạy,


Nhưng kẻ xấu nhéo mày.[20]

78.
Chớ thân với bạn xấu,


Tiểu nhân nhớ tách sâu.


Hãy thân người đôn hậu,


Thân thượng nhân nhiệm mầu.

79.
Pháp hỷ mang lạc đến,


Cùng tâm tư thuần yên;


Người trí mãi hoan nghênh,


Với pháp bậc Thánh diễn.[21]

80.
Thủy nông dẫn nước đến,


Người làm cung nắn tên,


Thợ mộc vá gỗ liền,


Bậc trí nhiếp thân yên.

81.
Như tảng đá kiên cố,


Chẳng gió nào lay xô,


Giữa khen chê trầm trồ,


Người trí giao động mô.

82.
Như hồ nước sâu thẳm,


Trong sạch và phẳng lặng,


Tợ thính pháp cao thâm,


Người trí hưởng lạc tầng.

83.
Người hiền bỏ hết thảy,[22]


Bậc trí dục chẳng hay,


Cảm thọ lạc, khổ rày,


Vui buồn Trí[23] khó lay.

84.
Chẳng vì mình, vì tha,


Không cầu con cái nhà,


Không tài sản quốc gia,


Thành tựu không mong mà,


Với việc làm nguỵ tà.


Vị trú giới thật thà,


Có tuệ, đúng pháp xa.[24]

85.
Ít người trong nhân gian,


Ðến được bờ Niết-bàn.


Vô số lớp lớp hàng,


Bờ này mãi hoang mang.

86.
Những người hành trì pháp,


Trú pháp thiện thuần áp,[25]


Bờ bên kia sẽ sát,


Vượt ma lực khó thoát.

87.
Bậc trí bỏ pháp ác,


Pháp trắng[26] hằng tạo tác .


Bỏ nhà, đi nơi khác,


Sống viễn ly khó áp.

88.
Hãy cầu vui Niết-bàn,


Bỏ dục, sở hữu quăng,[27]


Bậc trí rửa sạch ngần,


Cấu uế từ nội tâm.

89.
Những ai với chánh tâm,


Giác chi tập tinh cần,


Từ bỏ ái nhiễm thâm,


Không chấp thủ, hỷ tâm.


Không lậu hoặc, sáng ngần,


Sống tịch tịnh gian trần.

VII. Phẩm A La Hán

90.
Ðích đã đến, không âu,[28]


Giải thoát tuyệt nhiệm mầu,


Buộc ràng đã đoạn sâu,


Vị ấy chẳng não sầu.

91.
Tự sách tấn chánh niệm,


Chẳng thích cư xá riêng,


Như ngỗng rời ao viên,[29]


Mọi trú ẩn bỏ liền.

92.
Tài sản không tích luỹ,


Ăn uống khéo quán ghi,


Hành xứ tự tại thi,


Giải thoát, vô tướng kỳ,


Giữa hư không chim đi,


Hướng chúng tìm dễ gì.



93.
Ai lậu hoặc sạch tinh,


Ăn uống không đắm chìm,


Hành xứ tự tại xinh,


Không, giải thoát, vô hình.


Như chim vút hành tinh,


Dấu chân thật khó tìm.

94.
Ai nhiếp phục các căn,


Như người lái xe lăng,


Mạn trừ, lậu hoặc quăng,[30]


Người vậy, chư Thiên chăm.[31]

95.
Như đất tính dịu hiền,


Như cột trụ trung kiên,


Như hồ trong lặng yên,


Không luân hồi Thánh hiền.

96.
Người tâm ý an tịnh,


Lời an, nghiệp cũng xinh,


Giải thoát, chánh trí minh,


Tịnh lạc vị ấy vinh.

97.
Không tin[32], hiểu Vô vi.


Người đoạn mọi lụy bi,


Cơ hội tận, xả ly,


Vị tối thượng hữu hy.

98.
Làng mạc hay rừng sâu,


Thung lũng hay đồi cao,


La-hán trú chỗ nào,


Chốn ấy đẹp làm sao!

99.
Khả ái thay rừng sâu,


Vị ly tham ưa cầu,
Chỗ người phàm cảm sầu,


Vì dục lạc có đâu.

VIII. Phẩm Ngàn

100.
Dầu nói ngàn vạn lời,


Nhưng không gì ích lợi,


Tốt hơn một câu thôi,


Nghe xong, tịnh lạc đời.

101.
Dầu nói hàng ngàn câu,


Nhưng vô nghĩa, chẳng sâu,


Tốt hơn nói một câu,


Nghe xong, lạc nhiệm mầu.

102.
Dầu nói một trăm câu,


Nhưng không nghĩa, chẳng sâu,


Tốt hơn câu Pháp mầu,


Nghe xong, tịnh lạc thâu.

103.
Dù tại bãi trận chiến,


Thắng nghìn quân liên miên,


Tự thắng mình cao hiên,[33]


Thắng tối thượng tuyệt nhiên.



104.
Thắng mình, rất vinh quang,


Hơn chiến thắng các hàng.


Ai điều phục đoan trang,


Thường tự chế vững vàng.

105.
Không Thiên Thần, Thát Bà,


Cũng không Phạm Thiên,


Ma Có thể chiến thắng ta,


Người tự thắng đang là.

106.
Tháng tháng, năm năm trường,


Phí tài sản tế vương,


Chẳng bằng chốc cúng dường,


Đến bậc tu cao thượng.


Tuyệt thay cúng lạ thường,


Hơn trăm năm tế vương.

107.
Dù suốt trăm năm thâu,


Thờ lửa tại rừng sâu,


Không bằng giây nhiệm mầu,


Cúng dâng bậc tu cao.


Cúng dường vậy anh hào,


Hơn trăm năm tế cầu.

108.
Suốt năm cúng tế thần,


Ðể cầu phước cho thân.


Chẳng bằng một tư phần,


Tôn kính bậc cao thâm.

109.
Người hằng có tôn kính,


Bậc lão tôn hơn mình,


Bốn pháp sẽ nảy sinh:


Thọ, sắc, lạc, khoẻ hình.

110.
Người sống trăm năm dài,


Không kiềm chế, ác dai,


Tốt hơn sống một ngày,


Hành giới, thiền định hay.[34]

111.
Người sống trăm năm dài,


Không kiềm chế, ác dai.


Tốt hơn sống một ngày,


Có tuệ, thiền định hay.

112.
Người sống trăm năm trường,


Không tin tấn, nhác suông,


Tốt hơn một ngày đơn,


Nỗ lực tinh tấn thường.

113.
Người sống trăm năm lành,


Không thấy pháp diệt sanh,


Tốt hơn một ngày thanh,


Thấy pháp sinh diệt rành.

114.
Người sống trăm năm thâu,


Chẳng thấy bất tử đâu,


Tốt hơn ngày nhiệm mầu,


Thấy bất tử thâm sâu.

115.
Người sống trăm trăm dài,


Pháp tối thượng chẳng hay,


Tốt hơn sống một ngày,


Pháp tối thượng thấy ngay.

IX. Phẩm Ác

116.
Nhanh nhanh làm điều lành,


Điều ác đừng có hành.


Ai chậm làm việc lành,


Ý ưa thích ác hành.

117.
Ai lỡ làm ác rồi,


Chớ tiếp tục tăng bồi.


Đừng thích làm ác mới,


Chứa ác, tất khổ thôi.

118.
Nếu người làm điều lành,


Nên tiếp tục làm nhanh.


Hãy ước muốn thiện hạnh,


Chứa thiện, được an lành.

119.
Người ác thấy là lành.


Khi ác chưa trưởng thành,[35]


Nhưng khi ác trưởng thành,


Người ác rõ nó sanh.

120.
Người lành thấy là ác,


Khi thiện chưa tuổi tác,[36]


Nhưng khi thiện mộng xác,[37]


Người lành thấy thiện tác.

121.
Điều ác nhỏ chớ khinh,


Cho rằng “Chưa viếng mình”,


Như nước giọt linh tinh,


Lâu ngày cũng tràn bình.


Người ngu ác đùng đình,


Do mỗi ngày tập rinh.[38]

122.
Điều thiện nhỏ đừng khinh,


Cho rằng “Chưa viếng mình”,


Như nước giọt linh tinh,


Lâu ngày cũng tràn bình.


Người trí thiện ngập mình,


Do mỗi ngày hành vinh.[39]

123.
Người giàu tránh xóm lạ,


Thương gia lối hiểm xa.


Muốn sống, độc dược xa,


Lánh ác như cả ba.

124.
Bàn tay không vết xước,


Có thể cầm độc dược.


Không thương[40], tránh độc dược,


Không làm, ác đâu vương.

125.
Hại người không có tội,


Người thanh tịnh, tuyệt vời,


Tội lỗi đến ngu thôi,


Như ngược gió bụi rơi.[41]

126.
Một số sinh bào thai,


Địa ngục kẻ ác dai,


Người thiện sinh bồng lai,[42]


Vô lậu thanh tịnh hoài.

127.
Không trên trời, giữa biển,


Không lánh vào động hẻm,


Không chỗ nào trắng đen,


Trốn được quả ác hèn.[43]

128.
Không trên trời, giữa biển,


Không lánh vào động hẻm,


Không chỗ nào trắng đen,


Thoát khỏi tay Thần Xen.[44]



X. Phẩm Hình Phạt

129.
Ai cũng sợ vũ cương,


Ai cũng mong mạng trường[45]


Lấy mình nghĩ cân lường,


Không giết, chẳng sai phương[46].

130.
Mọi người sợ vũ cương,[47]


Mọi người thích mạng trường;


Chính mình nghĩ cân lường,


Không giết, chẳng sai phương.[48]

131.
Ai dùng vũ lực hại,
Mong muốn hạnh phúc dai,


Người tìm phúc lạc này,


Tương lai khó hạnh thay.

132.
Ai chẳng vũ lực hại,


Mong muốn hạnh phúc dai,


Người tìm phúc lạc này,


Tương lai hưởng được ngay.

133.
Đừng nói lời cay nghiến,


Nói vậy bị trả liền,[49]


Khổ thay lời cay điên,


Vũ lực hại lại liền.

134.
Nếu bạn sống yên thanh,


Như chiếc chuông bể vành.


Niết-bàn người đã thành,


Ác nghiệt không trong anh.[50]

135.
Người chăn bò dùng gậy,


Lùa bò ra rừng cây;


Cũng vậy, già chết này,


Khiến chúng sanh dừng đây.

136.
Khi kẻ ngu làm ác,


Không ý thức tạo tác.


Do nghiệp này gánh vác,


Đốt cháy như thiêu xác.

137.
Dùng lực trị vô lực,


Xúc phạm người chân thực.


Một trong mười khổ cực,


Tất nhiên đến đích thực.

138.
Khổ khốc liệt hoặc chết,


Hay thân bị thương vết,


Hoặc lâm bệnh rên xiết,


Hay tâm bị rối miết.

139.
Hoặc thảm hoạ bởi vua,


Hay bị tội oan chua;


Bà con mất búa xua,


Tài sản bị tan mưa.

140.
Hoặc phòng ốc cửa nhà,


Bị thiêu đốt bay xa,


Khi chấm dứt thân già,


Kẻ ngu địa ngục sa.[51]

141.
Không phải sống trần truồng,


Bện tóc, tro phết luôn,


Tuyệt thực, lăn trên đường,


Sống nhơ, ngồi xổm thường,


Không thể thanh tịnh trường,


Nếu còn nghi[52] vấn vương.

142.
Ai sống tự trang sức,


Nếu an tịnh, nhiếp phục,


Sống phạm hạnh, trì vững,


Vũ lực quăng ngoài rừng.


Phạm chí ấy anh hùng.

143.
Thật khó tìm trần thế,


Người biết thẹn, tự chế,


Thức tỉnh mọi tư thế,[53]


Như ngựa lành roi né.[54]

144.
Như ngựa lành chạm roi,


Hãy nhiệt tâm, vun bồi,


Với tinh tấn, tín, giới,


Thiền định, trạch pháp ngòi.[55]


Chánh niệm, minh hạnh vơi,[56]


Rất nhiều khổ diệt rơi.

145.
Người thuỷ dẫn nước lên,


Thợ cung nắn thẳng tên,


Thợ mộc ráp gỗ liền,


Người tốt tự chế kiềm.

XI. Phẩm Già
146.
Sao cười, sao hân hoan,


Khi đời mãi thiêu than?


Bị mây đen phủ tràn,[57]


Sao không tìm sáng quang?

147.
Hãy xem thân đẹp này,


Nhiều vết thương hôi khay,


Suy ra bệnh hoạn đầy,


Không vững bền lâu dài.

148.
Thân này bị suy già,


Mỏng manh, tật bệnh đa,[58]


Khối bất tịnh vỡ ra,[59]


Mạng sống chấm dứt mà.

149.
Xương bồ câu rụng đầy,


Rải rác mùa Thu bay,


Như trái bầu khô dài,


Vui gì nhìn nó đây?

150.
Thành này xây bằng xương,


Thịt máu tô phủ sườn,


Bên trong chết già nương,


Mạn, lừa đảo đầy vườn.[60]

151.
Xe vua đẹp sẽ già,


Thân này cũng vậy mà.


Pháp bậc thiện, không già.


Bậc chí thiện tuyên ca.[61]

152.
Người thiếu học, ít nghe,


Lớn già như bò bê.


Thịt nó tăng rất ghê,


Nhưng tuệ vẫn đù mê.

153.
Luân hồi mãi lang thang,


Ta tìm đâu gặp nàng,[62]


Người xây dựng nhà sang,


Khổ thay, sinh mãi mang.[63]

154.
Ôi! Người làm nhà tôi,[64]


Nay ta thấy anh rồi!


Ngươi sẽ không xây bồi.


Ðòn tay[65] ngươi gãy đôi,


Kèo cột[66]anh tan rồi,


Tâm Ta[67] tịnh quang trời,


Tham ái tiêu tơi bời.

155.
Thời trẻ, chẳng phạm hạnh,


Không tìm kiếm tài danh.


Như cò già ao xanh,


Ủ rũ, không cá chành.

156.


Thời trẻ, chẳng phạm hạnh,


Không tìm kiếm tài danh.


Như cây cung gãy thanh,


Thở than tháng[68] trôi nhanh.

XII. Phẩm Tự Ngã

157.


Nếu người yêu chính mình,


Bảo vệ mình nghiêm tinh,


Bậc trí ba canh xinh,


Luôn tỉnh thức quán nhìn.

158.


Trước hết thiết lập mình,


Vào những gì thích tinh.[69]


Sau giáo hoá chúng sinh,


Người trí khó phê bình.[70]

159.


Nên tôi luyện chính mình,


Như chỉ dẫn chúng sinh.


Điều người, khéo chế mình,


Khó thay tự phục chinh![71]

160.


Chính mình nương tựa mình,


Có ai khác dựa vinh.


Do khéo điều phục mình,


Ðạt tựa nương thật vinh.[72]

161.


Ðiều ác tự tác thành,


Tự mình tạo, mình sanh.


Nghiền kẻ ngu tan tành,


Như kim[73] cắt ngọc xanh.

162.


Người đức hạnh lấm nhầy,


Như tầm gởi[74] bám cây,


Gieo hại cho thân này,


Như kẻ thù mong thay.

163.


Dễ làm điều bất thiện,


Cái hại mình đương nhiên.


Điều lợi ích, tốt hiền,


Thật khó làm tất nhiên.

164.


Kẻ ngu si, thiếu kiến,


Chỉ trích Pháp Thánh Hiền,


Hoặc Thánh trú Pháp thiêng.


Do suy tư ác kiến,


Như chồi búp măng nghiêng,


Tự quả ấy hoại nghiền.



165.


Chính mình tạo ác phiền,[75]


Tự mình làm ô nhiễm,


Chính mình ác không liên,[76]


Tự mình làm tịnh yên.


Chính mình tịnh, không liêm,[77]


Không ai khiến ta yên![78]

166.


Dầu lợi người tuyệt xinh,


Đừng quên tự lợi mình,


Tự lợi nhờ trí minh.


Hãy chuyên tâm lợi mình.

XIII. Phẩm Thế Gian

167.


Đừng theo pháp đê tiện.


Chớ phóng dật, huyên thiên;


Đừng tin theo tà kiến,


Chớ tăng trưởng dục triền.[79]

168.


Tự tỉnh, đừng phóng dật!


Theo chánh hạnh hằng tập;


Ai chánh hạnh lạc vân,[80]


Cả hai đời hưởng phần.

169.


Khéo sống trong chánh pháp,


Ác phương[81] không dung áp!


Người sống theo chánh pháp,


Cả hai đời hạnh đáp.[82]

170.


Nhìn bọt nước tan nhanh,


Như nhìn huyển mộng ảnh!


Nên nhìn đời mong manh,


Thần chết đâu bắt anh.

171.


Hãy đến nhìn đời này,


Như xe vua đẹp thay,


Kẻ ngu tham đắm ngay,


Bậc trí nào nhiễm say.

172.


Ai trước sống buông lung,


Sau sống thật nghiêm trung,


Cõi này sáng rực bùng.


Như trăng thoát mây cùm.[83]

173.


Ai dùng các hạnh lành,


Xoá ác nghiệp đã hành,


Cõi này sáng rực thanh,


Như trăng thoát mây vành.

174.


Cõi này rất mù quáng,


Hiếm người thấy rõ ràng.


Ít chim thoát lưới chàng,


Rất ít đi thiên đàng.

175.


Như chim thiên nga bay,


Không gian liệng rất tài;


Chinh phục Ma, Ma say,


Bậc trí thoát đời nay.



176.


Ai bất chấp giáo pháp,


Ai nói lời vọng ác,


Ai bác bỏ đời khác,[84]


Không ác nào không tác.

177.


Keo kiệt không sanh thiên,


Kẻ ngu ghét thí siêng,[85]


Người trí thích thí hiền,


Ðời sau hưởng lạc liền.

178.


Hơn thống lãnh cõi này,


Sanh cõi trời càng hay,


Chủ trì thế giới nay,


Quả Dự Lưu tuyệt thay.

XIV. Phẩm Phật Đà

179.


Phật giới rộng thênh thang,


Người chiến thắng huy hoàng,


Không ai đánh bại tan,


Tìm đường đâu rõ ràng,


Bậc không vết[86] trần gian?

180.


Phật giới rộng thênh thang,
Ai giải tỏa lưới tham,


Cạm bẫy không dẫn ràng,


Tìm đường đâu rõ ràng,


Bậc không vết[87] trần gian?

181.


Người trí ý chuyên thiền,


An vui, viễn ly siêng,


Chư thiên hằng kính nghiêng,


Bậc chánh giác, niệm yên.

182.


Khó thay, được làm người,


Khó thay, đời sống tươi,[88]


Khó thay, nghe Pháp Người,[89]


Khó thay, Phật ra đời!

183.


Không làm mọi điều ác.


Hạnh lành thường hằng tác,


Tâm ý giữ sạch mát,


Chư Phật dạy chính pháp.[90]

184.



Chư Phật thường giảng dạy:
“Nhẫn hạnh phương pháp hay;



Niết-bàn quả tuyệt thay”


Sa môn không hại ai.

185.



Không phỉ báng, phá hoại,


Hộ trì giới bổn hay,


Ăn uống không đắm say,


Trú nơi thanh vắng mây,[91]


Tâm tinh tấn vun xây,


Chính lời Phật dạy đây.

186.


Tiền vàng như mưa rơi,


Các dục khó thỏa hơi.


Dục ít ngọt, đắng vơi,[92]


Biết vậy là Trí[93] rồi.

187.


Ðệ tử Đấng Như Lai,


Dục lạc chẳng đoái hoài,


Dầu là dục thiên thai,[94]


Chỉ thích ái diệt dài.

188.


Nhiều người sợ hãi kinh,


Tìm nhiều chỗ nương mình,


Hoặc rừng rậm, núi linh,


Hoặc vườn cây, tháp đình,
Do sợ hãi khổ mình.

189.


Nương tựa ấy bất an,


Không nương tựa tối sang.[95]


Nương tựa ấy là khang,[96]


Khổ đau mãi vương mang.

190.


Nhưng nương tựa Thế Tôn,


Chánh Pháp và Tăng môn,


Người trí tuệ viên tròn,


Thấy Tứ Thánh Đế ngon.[97]

191.


Thấy khổ và nguyên nhân,


Diệt khổ thấy trong ngần,


Bác Thánh Đạo tám phần,


Ðưa đến khổ não tận.

192.


Nương tựa vậy rất an,


Quy y này tối sang,


Nương tựa vậy không khang,[98]


Khổ đau hết vương mang.

193.


Khó tìm bậc thanh cao,


Không phải đâu dễ đào.


Ở đâu bậc Thánh vào,


Gia đình lạc làm sao![99]

194.


Vui thay, Phật ra đời!


Vui thay, Pháp sáng ngời!


Vui thay, Tăng hòa đời!


vui thay, tinh tấn Người![100]

195.


Cúng dường bậc đáng tôn,


Đệ tử hay Thế Tôn,


Các bậc tịnh tâm hồn,


Sầu ưu diệt sạch trơn.



196.


Cúng dường bậc như thế,
Không sợ hãi, tịnh bề,[101]


Phước đức trữ sum xuê,


Khó ai lường được nghe.

XV. Phẩm An Lạc

197.


Lành thay, chúng ta trú,


Không hận, giữa hận thù!


Giữa những kẻ oán thù,


Chẳng hận thù, ta trú!

198.


Lành thay, chúng ta cư,


Không bệnh giữa ung thư![102]


Giữa những người đau nhừ,


Chẳng ốm đau, ta trú.

199.


Lành thay, chúng ta yên,[103]


An tịnh giữa cuồng điên,


Giữa những kẻ huyên thuyên,


Ta sống rất lặng yên.

200.


Lành thay, chúng ta sống,


Hết thảy trống rỗng không.[104]


Ta trì hưởng lạc ròng,


Như chư Thiên vô song.[105]

201.


Chiến thắng sinh oán thù,


Thất bại khổ nghìn thu,


Sống tịch tịnh an tu.


Thắng bại gạt bỏ trừ.

202.


Không lửa nào sánh tham?


Chẳng ác nào sánh sân?


Khổ nào sánh uẩn trần,[106]


Lạc nào sánh tịnh tâm.

203.


Ðói ăn, bệnh trầm kha,


Các hành, cực đau mà,


Hiểu như thật cao xa,[107]


Niết bàn, lạc thiên hà.

204.


Đạt sức khoẻ là vàng,


Tri túc là giàu sang.


Thành tín là họ hàng,


Niết bàn, lạc tối trang.[108]

205.


Ðã uống nước độc cư,


Và nếm vị tịnh thư,


Không ác, sợ hãi trừ,


Người uống Pháp hỷ tu.[109]

206.


Lành thay, thấy thánh nhân,


Sống hưởng lạc chung phần.


Không liên hệ kẻ đần,


Hằng mãi an lạc tâm.

207.


Sống chung với kẻ đần,


Dài ngày sẽ sầu tâm.


Khổ thay gần kẻ lâng,[110]


Như sống với oán ân.


Vui thay, gần trí nhân,


Như sống gần người thân.

208.


Vì vậy nên thành cận,[111]
Theo hiền sĩ, trí nhân,


Bậc nghe nhiều, giới thâm,


Bậc tự chế, tinh cần,


Trí giả ấy, thiện nhân,


Như trăng theo sao ngân.

XVI. Phẩm Hỷ Ái

209.


Người chuyên làm việc quấy,


Việc chuyên làm bỏ lây,


Bỏ đích, hỷ ái say,[112]


Ganh tị bậc chuyên hay.

210.


Đừng gần gũi người thương,


Kẻ ghét nên xa trường.


Mến không gặp khổ vương,


Oán gặp phải đau thương.

211.


Vì vậy đừng yêu đương,


Ái biệt ly buốt xương;[113]


Ai ghét yêu chẳng vương,


Phiền não đâu buộc đường.

212.


Bởi ái[114] sanh sầu khổ,


Do ái sợ hãi trổ,[115]


Ai tham ái đã nhổ,[116]


Sầu khổ, kinh hãi mô?

213.


Yêu mến[117] sanh sầu khổ,


Mến yêu sợ hãi trổ.


Ai yêu mến đã nhổ,


Sầu khổ, kinh hãi mô?

214.


Tham dục[118] sanh sầu khổ,


Tham dục sợ hãi trổ.


Ai tham dục đã nhổ,


Sầu khổ, kinh hãi mô?

215.


Chấp thủ[119] sanh sầu khổ,


Chấp thủ sợ hãi trổ,


Ai chấp thủ đã nhổ,


Sầu khổ, kinh hãi mô?

216.


Khát ái sanh sầu khổ,


Khát ái sợ hãi trổ.


Ai khát ái đã nhổ,


Sầu khổ, kinh hãi mô?

217.


Hoàn hảo giới và trí,


Trú pháp, chứng chân lý,


Làm những gì đáng thi,[120]


Mọi người ái kính vì.[121]

218.


Người mong pháp ly ngôn[122]


Kinh cảm ngập tràn hồn,[123]


Tâm ly dục, bồn chồn,[124]


Xứng gọi bậc Thượng Tôn.[125]

219.


Khách lâu ngày ly hương,


An toàn về trên đường,


Bà con, thân hữu thương,


Hân hoan đón phi trường.

220.


Cũng vậy những phước lành,


Ðón người làm thiện rành,


Ðời nay, kiếp lai sanh.[126]


Như thân nhân đón anh.

XVII. Phẩm Phẫn Nộ

221.


Người nên bỏ sân, mạn,


Đánh kiết sử tiêu tan,


Danh sắc chẳng tham màng.


Khổ dễ đâu theo chàng.

222.


Ai kiềm chế sân sanh,[127]


Như dừng xe lăn nhanh,


Ta gọi người hùng anh,


Kẻ khác chỉ nắm vành.

223.


Dùng từ ái[128] thắng giận,


Lấy thiện thắng ác tâm,


Lấy thí thắng keo bần,


Lấy chân thắng ngụy tâm.

224.


Nói thật, không hận sân,


Quà nhỏ tặng người bần,


Nhờ ba việc tiên thần,


Người đến Thiên giới tầng.

225.


Hiền nhân không hại đời,[129]


Thân hằng chế ngự thôi,


Bất tử đạt được rồi,


Ðến đâu khổ đều vơi.

226.


Ai người hằng giác tỉnh,


Ngày đêm tu nghiêm minh,


Niết bàn hướng nhất định,


Diệt ô nhiễm sạch tinh.

227.
A-tu-la thân ơi!


Cha ông ta nói rồi:


“Ngồi im, bị chê cười,


Nói nhiều, bị trách tươi,[130]


Nói vừa tha[131] cũng cười.


Người thoát khỏi chê cười,


Thật khó tìm trong đời”.

228.
Xưa, vị lai, và nay,


Ðâu có sự kiện này,


Kẻ toàn bị chê bai,


Người luôn được khen hoài.

229.
Nhưng những người thông minh.


Tán thán bậc đức tính.


Bậc giới đức, trí minh,


Bậc thường hằng quán nhìn.[132]

230.
Hạnh sáng như ngọc ngà,


Ai dám chê bai mà?


Chư thiên hằng tán ca,


Phạm Thiên vui cả nhà.

231.
Giữ thân đừng bạo động,


Kiềm chế thân chính ông,


Ác thân đừng hằng mong,[133]


Luyện thân làm hạnh ròng.[134]

232.
Giữ khẩu đừng nói ác,


Kiềm chế khẩu chính xác,


Gạt bỏ lời thô tháp,


Luyện khẩu tránh nói ác.[135]

233.
Giữ ý đừng nghĩ ác,


Kiềm chế ý chính xác,


Gạt bỏ ý nghĩ ác,


Luyện ý khéo nghĩ tác.[136]

234.
Bậc trí kiềm chế thân,


Khẩu kiềm chế trong ngần,


Ý kiềm chế minh phân,


Kiềm cả ba[137] tuyệt trần.

XVIII. Phẩm Cấu Uế

235.
Ngươi nay giống lá tàn,


Diêm sứ đang chờ nàng,


Cửa chết ngươi gần sang,


Du hành không mì vàng.[138]

236.
Tự xây đảo cho mình,


Tinh cần và trí minh.


Thoát dục, trừ bất tịnh,


Chư Thiên, địa cung nghinh.

237.
Ðời ngươi nay sắp tàn,


Diêm vương tiến gần sang.


Chẳng nơi nghỉ dặm tràng,[139]


Du phương không mì vàng.

238.
Tự xây đảo cho mình,


Tinh cần và trí minh.


Thoát dục, trừ bất tịnh,


Chẳng trở lại già, sinh.

239.
Thời này đến khắc nọ,


Bậc trí liên tục bỏ,


Bất tịnh thô tế nhỏ,


Như thợ vàng lọc tro.[140]

240.
Như sét từ sắt sinh,


Sắt sanh lại ăn mình,


Tợ tạo ác đùng đình,[141]


Địa ngục sẽ đắm chìm.[142]

241.
Không tụng làm nhớp kinh,


Thiếu cần[143] nhớp nhà mình,


Biếng nhác xấu sắc xinh,


Hôn trầm nhơ người rình.[144]
Hết thảy uế thật tình.

242.
Tà hạnh nhơ đàn bà,


Tham dơ người phong hoa,[145]


Ác pháp, vết nhơ mà,


Đời này và đời xa.[146]

243.
Trong những vết nhơ ấy,


Vô minh, thật nhơ vậy,


Tỷ kheo đoạn nhơ nầy,


Vết nhơ đâu đoanh vây?

244.
Đời sống không hổ[147] dễ,


Như diều quạ bạo ghê,


Khoác lác, phỉ báng lề,[148]


Người vậy nhơ đáng ghê.

245.
Khó thay, sống có tàm,[149]


Thanh tịnh thường mong làm.[150]


Không khoác lác, hỷ hoan,


Sáng suốt và sạch vàng.

246.
Ai ở đời sát sinh,


Nói dối không thật tình,


Lấy tài sản chốn đình,[151]


Lan chạ vợ bạn[152] mình.

247.
Uống rượu men, rượu nấu,


Người có đam mê sâu,


Không chờ đến kiếp sau,[153]


Tự chôn mình rất mau.

248.
Vậy, bạn ơi nhớ rằng,


Khó kiềm chế ác chằng,[154]


Đừng để tham, ác tầng,


Kéo bạn mãi khổ thân.

249.
Do đức tín, hỷ tâm,


Họ bố thí chuyên cần.


Ai bất mãn hận sân,


Người khác được hưởng phần,


Ngày dài suốt đêm thâm,


Người sẽ không tịnh tâm.

250.
Ai diệt được ganh tâm,


Tận gốc nhổ toàn phần.


Ngày dài suốt đêm thâm,


Người sẽ được tịnh tâm.

251.
Lửa nào bằng dục tham!


Chấp nào bằng sân phàm!


Lưới nào bằng si màng!


Sông nào bằng ái hàn![155]

252.
Dễ thay thấy lỗi người,


Lỗi mình khó trời ơi!


Phanh lỗi người kỹ thôi,


Như sàng gạo trấu phơi.[156]


Còn lỗi mình chôn đời,[157]Như kẻ dấu bài[158] thôi.

253.
Ai thấy lỗi người ta,


Thường chỉ trích dèm pha,


Người ấy lậu tăng đà,


Lậu diệt còn rất xa.

254.
Bầu trời không đường mòn,


Ngoài đây, không sa môn,


Phàm nhân hý luận luôn,


Như Lai, hý diệt trường.

255.
Bầu trời không đường mòn,


Ngoài đây, không sa môn.


Các hành không vững luôn,[159]


Đức Phật diệt động trường.[160]

XIX. Phẩm Pháp Trụ

256.
Người nào phân xử vội,


Không theo Pháp tuyệt vời,


Bậc trí nghiên cứu rồi,


Thật, không thật rành thôi!

257.
Ai chỉ đạo công lý,


Thận trọng, dùng Pháp chí,[161]


Duy trì Pháp bậc trí,


Xứng gọi Pháp bảo trì.

258.
Không phải ăn nói hay,


Mới gọi bậc trí tài.


Vắng sợ, an tâm hoài,


Xứng gọi bậc trí tài.

259.
Không phải nói lưu loát,


Mới có kinh nghiệm Pháp,


Những ai nghe ít Pháp,


Nhưng hành thấy thân pháp,[162]


Người ấy kinh nghiệm pháp,


Xứng danh trú trong pháp.

260.
Không phải trưởng lão đâu,


Cho dù, tóc bạc đầu.


Hoặc chỉ tuổi tác cao,


Vậy gọi “Lão rỗng đầu”.[163]

261.
Ai biết Pháp chân thâm,[164]


Vô hại, kiềm chế tâm,


Điều phục, tịnh trong ngần,


Trưởng lão xứng gian trần.

262.
Không chỉ tài hùng biện,


Không phải mặt dáng duyên,


Thành được người tốt hiền,


Nếu tỵ hiềm, đê tiện.

263.
Nhưng hiền được gọi đây,


Nhổ những tâm xấu nầy,[165]


Bậc trí diệt sân ngay,


Xứng hiền thiện chốn nầy.

264.
Trọc đầu, không Sa môn,


Không giới luật, xảo ngôn.


Tham, ích kỷ ngập hồn,


Sao xứng gọi Sa môn?

265.
Bất thiện, người diệt tiêu,


Dù thô tế, ít nhiều,


Sau khi lắng muôn chiều,


Sa môn gọi tuyệt siêu.

266.
Chỉ khất thực nhờ người,


Tỷ kheo đâu xứng đời!


Phải hành Pháp của Người,[166]


Tỷ kheo gọi tuyệt vời!

267.
Ai vượt ngoài thiện ác,


Sống phạm hạnh duy tác,


Sống thấy rõ thân tác,[167]


Gọi tỷ kheo chính xác.

268.
Im lặng không phải trí,[168]


Nếu bối rối, ngu si.


Như cán cân, bậc trí,[169]


Chọn điều lành thực thi.

269.
Lánh xa những bất thiện,


Hiền nhân là đương nhiên.


Ai hiểu cả hai miền,[170]


Hiền triết gọi vạn niên.

270.
Còn sát hại chúng sinh,


Hiền Nhân đâu xứng vinh.


Không hại mọi hữu tình,


Hiền Nhân gọi tuyệt xinh.

271.
Chẳng giới cấm, nguyện thề,


Hoặc bởi học nhiều ghê,


Hoặc đạt định yên bề,


Hoặc sống nơi vắng vẻ.



272.
“Ta hưởng an lạc nè,


Phàm nhân hưởng đâu dễ”


Con[171] chớ bằng lòng nghe,


Khi bất tịnh bộn bề.[172]

XX. Phẩm Đạo

273.
Bát chánh, đường đẹp nhất,


Tứ Đế, thật tuyệt trần,


Vô tham, pháp diệu thần,


Pháp nhãn, đẹp nhất trần.[173]

274.
Chỉ đường này tuyệt xinh,


Ðưa đến kiến thanh tịnh.


Nếu theo đường sáng vinh,


Ma vương sẽ hãi kinh.[174]

275.
Nếu bạn theo đường nầy,


Ðau khổ sẽ dừng ngay.


Trí bừng, chướng[175] diệt đây.


Ta dạy con đường này.

276.
Chư Phật chỉ thuyết dạy,


Các con gắng làm ngay,


Người hành trì lối này,


Ác Ma đâu trói tay.[176]

277.
Khi tuệ quán thấy sâu,


Các hành vững chắc đâu,


Nhàm chán bởi khổ đau,


Bước trên đường tịnh mầu.[177]

278.
Khi tuệ quán thấy sâu,


Các hành là khổ sầu,[178]


Nhàm chán bởi khổ đau,


Bước trên đường tịnh mầu.

279.
Khi tuệ quán thấy sâu,


Các hành có ngã đâu,


Nhàm chán bởi khổ đau,


Bước trên đường tịnh mầu.

280.
Khi cần, không tinh cần,


Trong khi trẻ mạnh thân,


Yếu đuối, chẳng quyết tâm,


Sao đạt đạo tuệ thâm?

281.
Lời nói hằng thận trọng,


Tâm luôn chế ngự phòng,


Thân không ác hành động,


Thanh tịnh ba nghiệp trong,[179]


Đạt đạo Như Lai phong.[180]

282.
Tinh tấn, trí tuệ sinh,


Nhác lười, tuệ rời mình,[181]


Hiểu hai đường phân minh,


Hãy luôn luôn tấn tinh,


Khiến trí tuệ tăng sinh.

283.
Ðốn rừng[182] không đốn cây,


Từ rừng, sinh sợ đầy,


Sau khi đốn rừng nầy,


Tỷ kheo, tâm tịnh đầy.

284.
Khi nào rừng[183] còn đầy,


Ái dục giữa gái trai,


Tâm người ràng buộc hoài,


Như con và mẹ nai.

285.
Tự cắt đứt ái dục,



Như bẻ hoa kèn thu,



Tịnh Đạo gắng trau tu,



Như Lai dạy Bất tử.[184]

286.
Mùa mưa ta trú đây,



Ðông, Hạ cũng như vậy,



Kẻ ngu suy nghĩ bậy,



Không biết nguy[185] quanh đây.

287.
Ai người ý đắm say,

Gia súc, con cái này,

Tử thần bắt người ấy,

Như lụt cuốn làng[186] say.

288.
Mỗi khi Tử thần vướng,

Không có cha, con nương,

Không thân bằng, thân thương,

Có thể tìm tựa nương.

289.
Biết rõ sự thật này,

Bậc trí trì giới ngay,

Nhanh tịnh thanh đạo[187] này,

Niết bàn tiến đến ngay.

XXI. Phẩm Tạp Lục

290.
Nếu người bỏ lạc bé,

Thấy được lạc lớn ghê,

Lạc nhỏ bậc trí chê,

Thấy lạc lớn bộn bề.

291.
Ai gieo khổ cho người,

Mong cầu lạc mình thôi,

Bị hận thù buộc lôi,

Làm sao hận thù nguôi.[188]

292.
Việc thích đáng, không làm,

Không đáng làm, ôm lam,

Người ngã mạn, phóng đãng,

Lậu hoặc ắt trưởng tăng.

293.
Nhưng ai hằng cần mẫn ,

Thường chánh niệm quán thân,

Không làm việc lăn nhăn,

Việc thích đáng làm chăm,

Người tỉnh niệm chuyên cần,

Phiền não tiêu tan dần.

294.
Sau khi giết mẹ cha,[189]

Giết hai vua ác tà,[190]

Giết vương quốc, cả nhà,[191]

Vô ưu, Phạm chí là.[192]

295.
Sau khi giết mẹ cha,

Hai vua kiến thức xa,[193]

Giết hổ tướng lớn già,[194]

Vô ưu, Phạm chí là.

296.
Ai đệ tử Như Lai,

Hằng luôn tỉnh giác hoài,

Dù ngày hay đêm dài,

Thường tưởng niệm Như Lai.


297.
Ai đệ tử Như Lai,

Hằng luôn tỉnh giác hoài,

Dù ngày hay đêm dài,

Thường tưởng niệm Pháp Ngài.[195]

298.
Ai đệ tử Như Lai,

Hằng luôn tỉnh giác hoài,

Dù ngày hay đêm dài,

Tăng già thường niệm hoài.

299.
Ai đệ tử Như Lai,

Hằng luôn tỉnh giác hoài,

Dù ngày hay đêm dài,

Sắc thân tưởng niệm hoài.

300.
Ai đệ tử Như Lai,

Hằng luôn tỉnh giác hoài,

Dù ngày hay đêm dài,

Vui thích niềm vô hại.

301.
Ai đệ tử Như Lai,

Hằng luôn tỉnh giác hoài,

Dù ngày hay đêm dài,

Vui thích thiền quán hoài.

302.
Xuất gia khó lắm thay!

Vững tâm trụ chua cay,[196]

Tại gia sinh hoạt gay,

Bạn không đồng khổ đầy,

Trôi[197] luân hồi đau ngây.

Vậy luân hồi chớ giây,[198]

Đau khổ đừng níu quay.

303.
Người giới hạnh, tín tâm,

Danh thơm, tài đầy trần,

Chỗ nào người đến gần,

Chỗ ấy được tôn dâng.

304.
Người hiền dù ở xa,

Rạng rỡ như Hima,[199]

Kẻ ác sống cạnh nhà,

Như tên bắn đêm xa.[200]

305.
Ai ngồi, nằm một mình,

Ðộc hành chẳng mệt hình,

Chỗ vắng kiềm chế tinh,[201]

Vui sống rừng sâu xinh.


XXII. Phẩm Địa Ngục

306.
Nói dối sinh khổ cảnh,

Đã làm nhưng nói quanh,

Cả hai nghiệp[202] chẳng lành,

Sẽ chết em như anh.[203]

307.
Nhiều người mặc cà sa,

Không kiềm chế ác tà.

Do làm việc điêu ngoa,[204]

Sinh địa ngục cả nhà.

308.
Tốt hơn nuốt sắt hòn,

Cháy rực như than hồng,

Hơn ăn cơm nhà nông,

Không kiềm chế, lung mông.


309.
Bốn nạn chờ đợi người,

Lan chạ với vợ người,

Mắc họa, ngủ không tươi,[205]

Bị thế gian chê cười,

Ðọa địa ngục than ơi!

310.
Phạm tội sinh khổ cảnh,

Hoảng sợ nhiều, vui nhanh.[206]

Bị vua phạt tội hành,

Vậy đừng ngủ vợ anh.[207]

311.
Như cỏ sa vụng nắm,

Tay sẽ bị đứt thâm.

Sa môn hạnh tà tâm,

Đọa địa ngục sâu tầng.

312.
Sống phóng đãng buông lung,

Ô nhiễm, nguyện lung tung,[208]

Phạm hạnh sút giảm hung,

Không đạt quả ung dung.

313.
Cái gì cần phải làm,

Nên làm hết khả năng,

Xuất gia không tinh chăm,

Bụi đời[209] sẽ dần tăng.

314.
Ác hạnh đừng nên làm,

Sau này khổ vương mang,

Thiện hạnh phải tô trang,[210]

Làm xong đạt lạc an.

315.
Như biên cương thành kinh,

Trong ngoài giữ nhiệt tình,[211]

Cũng vậy, phòng hộ mình,

Sát na chớ rung rinh.[212]

Giây phút qua, khổ mình.

Đoạ địa ngục im lìm.

316.
Không đáng hổ, lại hổ.

Việc hổ, lại không mô.

Tà kiến chấp càng thô,[213]

Chúng sinh ác thú vô.[214]

317.
Không đáng sợ, lại sợ,

Ðáng sợ, lại ơ thờ,

Do tà kiến lấm nhơ.

Chúng sinh ác thú vô.

318.
Không lỗi, lại thấy lỗi,

Có lỗi để cho trôi,

Do tà kiến này thôi,

Họ đi ác thú rồi.

319.
Có lỗi, biết lỗi lầm,

Không lỗi, biết sạch ngần,

Do chánh kiến sâu thâm,

Cõi lành họ an phần.[215]

XXIII. Phẩm Voi

320.
Ta như voi giữa trận,

Hứng chịu cung tên trần,

Phỉ báng và vạch trần.

Cõi thế nhiều ác nhân.

321.
Voi luyện dẫn cả bầy,

Vua cưỡi ngựa luyện hay,

Người rèn luyện tuyệt thay,

Phỉ báng chẳng lung lay.[216]

322.
Tuyệt thay, con la kiềm,[217]

Ngựa Sindh thuần chủng hiền,

Ðại tượng vùng lớn miền,

Người tự chế tốt hiền.

323.
Chẳng phải loài cưỡi ấy,

Niết bàn người với tay.[218]

Chỉ tự kiềm chế hay,

Ðạt đích tối thượng này.[219]

324.
Khó cản voi Tài Hộ,[220]

Phát dục, chạy quanh đô,[221]

Không ăn, nhảy hồ đồ,

Nhớ voi rừng thời mô.[222]

325.
Người háu ăn, ngu lười,

Mê ngủ, nằm đười ươi,

Như heo chứa rau tươi,[223]

Kẻ ngu vào thai đời.[224]

326.
Trước tâm này vân du,[225]

Theo dục lạc nghìn thu.

Ta nay chế ngự dư,[226]

Như người luyện voi dữ.

327.
Hãy vui không phóng dật,

Khéo canh giữ ý tâm.

Ác đạo không cận lân,

Như voi thoát lầy đầm.[227]

328.
Khi hành gặp bạn ngoan,

Chung sống, hạnh đoan trang,[228]

Chánh niệm, tuệ,

hỷ hoan,Chinh phục mọi bất an.

329.
Không gặp bạn hiền ngoan.

Chung sống, hạnh đoan trang,

Như vua bỏ đất vàng,

Cô độc như voi hoang.[229]

330.
Tốt hơn sống cô đơn,

Kẻ ngu không nhập môn.

Vô tư, ác không ôm,[230]

Như voi sống độc đơn.

331.
Hạnh phúc, bạn lúc cần!

Hạnh phúc, biết đủ tâm,[231]

Hạnh phúc, đức[232] khi lâm![233]

Hạnh phúc, khổ đoạn tận.

332.
Kính mẹ, hạnh phúc sinh,

Hiếu cha cũng hạnh vinh,

Trọng Sa môn, hạnh sinh,

Kính bậc giới,[234] hạnh vinh.

333.
Vui, hành giới đến già!

Hạnh phúc, tín vững đà!

Đạt trí tuệ vui mà,

Hạnh phúc ác lìa xa.

XXIV. Phẩm Tham Ái

334.
Người sống đời buông lung,

Tham tăng nhanh vẫy vùng.

Nhiều đời nhảy lung tung,

Như khỉ tìm trái rừng.

335.
Ai sống trong đời này,

Bị ái dục đoanh vây,

Sầu khổ tăng trưởng hoài,

Như cỏ gặp mưa dài.

336.
Nhưng ai trú trong đời,

Dẹp yên ái dục sôi,

Người này sầu sẽ vơi,

Như lá sen nước rơi.

337.
Sự thịnh vượng Ta dạy,

Các người tụ họp đây,

Hãy nhổ tận gốc ái,

Như nhổ cỏ Bi này.

Đừng để Ma bẻ gãy,

Như nước cuốn cỏ cây.

338.
Như cây bị chặt trọi,

Nhưng gốc vẫn đâm chồi,

Khổ vẫn còn sinh sôi,

Khi ái tế còn ngồi.[235]

339.
Ba mươi sáu dòng ái,[236]

Cuốn người bơi trong ái.

Dục tưởng sinh tham ái.

Quét người tà kiến dai.

340.
Ở đâu ái dục xoáy,

Như giây leo sâu dày,

Thấy giây ái đó đây,

Dùng trí tuệ cắt ngay.

341.
Chúng sanh thích ái nhiều,

Dính mắc, khao khác yêu.

Cầu mong tiện, lạc nhiều,

Sinh, già lắm phen tiêu.[237]

342.
Ai theo ái, bị tấn,[238]

Run như thỏ sa hầm,[239]

Bị triền phược buộc chân,

Chúng đau khổ lớp tầng.

343.
Ai theo ái, bị tấn,

Run như thỏ sa hầm,

Tỷ kheo muốn ly tham,

Nên dập tắt ái phàm.

344.
Lìa phiền lại hướng phiền,[240]

Thoát phiền trở lại phiền.

Nhìn xem người như trên,

Thoát rồi, bị buộc riềng.

345.
Sắt, cây, gai trói thắt,

Bậc trí chưa thấy chắc.

Tham châu báu, vợ sắc,

Trang sức, con, cháu chắt.

346.
Trói buộc này thật chắc.

Lôi kéo thật gay gắt,

Do biết ái dìu dắt.

Bậc trí bỏ và cắt.[241]

347.
Kẻ đắm say ái dục,

Lao mình xuống dòng đục,

Như nhện sa lưới vực.[242]

Do biết ai trói buộc,

Khổ não bậc trí buông.[243]

348.
Quá, hiện, vị[244] cho trôi,

Viếng bờ kia tuyệt vời,[245]

Tâm giải thoát đạt rồi,

Sinh, già đâu nữa trời.

349.
Người bị trạo cử hành,

Dục đắm cảnh trong thanh,[246]

Người ấy tham tăng nhanh,

Khiến phiền não lộng hành.[247]

350.
Nhưng ai vui, diệt ác,

Quán bất tịnh, niệm pháp,

Người ấy sẽ diệt ác,

Cắt đứt Ma trói xác.

351.
Ai đạt không sợ rồi,

Ly ái, nhiễm ô vơi,

Nhổ nguyên nhân sinh đời,[248]

Kiếp này thân cuối rồi.

352.
Ái lìa, không chấp thủ.

Khéo kệ ngâm pháp cú,

Hiểu thông các ngôn từ,

Trước sau rất thứ tự.

Thân cuối đạt đang như,

Đại nhân mãi nghìn thu,

Gọi Ðại trí không dư.[249]

353.
Ta[250] trội hơn tất cả,[251]

Thông thái hơn cả nhà,

Không uế nhiễm là Ta.

Ta từ bỏ tất cả,

Tham ái đã lìa xa.

Chính ta hiểu thông cả,

Ai xứng đáng thầy Ta?

354.
Pháp thí, thắng mọi thí!

Pháp vị, thắng mọi vị!

Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!

Ái diệt, thắng lụy bi!

355.
Giàu có hại kẻ ngu.

Nhưng không hại Đẹp Thu,[252]

Kẻ ngu tham giàu xù,

Hoại[253] mình, tha nghìn thu.

356.
Cỏ làm hại thôn lâm,[254]

Dục làm hư chúng dân.

Dâng đến bậc ly trần,[255]

Vậy quả đẹp bội phần.[256]

357.
Cỏ làm hại thôn lâm,

Sân làm hư chúng dân.

Dâng đến bậc ly sân,

Vậy quả đẹp tuyệt trần.

358.
Cỏ làm hại thôn lâm,

Si làm hư chúng dân,

Dâng đến bậc ly đần,[257]

Vậy quả đẹp tuyệt trần.

359.
Cỏ làm hại thôn lâm,

Tham làm hư chúng dân.

Dâng đến bậc trong ngần,[258]

Vậy quả đẹp tuyệt trần.

XXV. Phẩm Tỷ Kheo

360.
Tuyệt thay, kiềm chế mắt!

Tuyệt thay, kiềm tai chắc!

Tuyệt thay, kiềm mũi chặc!

Tuyệt thay, kiềm lưỡi chắc.

361.
Tuyệt thay, kiềm chế thân!

Lời kiềm chế trong ngần,

Tuyệt thay, kiềm chế tâm.

Kiềm chế khắp chốn trần.[259]

Tỷ kheo kiềm mọi phần,

Diệt khổ đau sạch ngần.

362.
Người làm chủ tay chân,

Kiềm chế đầu tuyệt trần,

Thích cô đơn âm thầm,

Biết đủ, hướng nội tâm,

Tỷ kheo xứng trăm phần.

363.
Tỷ kheo làm chủ miệng,

Không ngã mạn, lời hiền,

Lý, hành[260] giải thâm uyên,

Lời nói dịu ngọt hiền.

364.
Tỷ kheo trú trong Pháp,

Hỷ pháp, suy tư Pháp.

Hằng tưởng nhớ giáo Pháp,

Không xa lìa chánh Pháp.

365.
Điều mình được chẳng khinh,

Không ganh người khác vinh,[261]

Tỷ kheo ganh tỵ sinh,[262]

Không chứng đạt thiền định.

366.
Lợi ít cũng không khinh,

Chỉ nhận trong im lìm,

Sống tinh tấn, thanh tịnh,

Chư Thiên lễ sát mình.[263]

367.
Đối với danh và sắc,

Không chấp ‘Ta’ cứng nhắc.

Không sầu não vướng mắc.

Tỳ kheo gọi xứng nhất.

368.
Tỳ kheo sống Từ tâm,

Pháp Phật hiểu uyên thâm,

Cảnh tịch tịnh dự phần.

Các hành diệt, tịnh ngần.

369.
Tát nước ra khỏi tàu,

Trống rỗng chạy rất mau.

Diệt tham, sân sạch làu,

Niết bàn bạn[264] sẽ thâu.

370.
Ðoạn năm,[265] từ bỏ năm,[266]

Tinh tấn tu tập năm,[267]

Tỳ kheo thoát trói năm,[268]

Xứng gọi “bộc lưu” thăm.[269]

371.
Tỳ kheo, nên thiền tập,

Đừng để tâm phóng dật,

Đắm say dục, bất cần,[270]

Nuốt sắt nóng sự thật,

Chớ than khổ đau thân!

372.
Kẻ ngu không có định,

Không định, tuệ đâu sinh?

Người có tuệ và định,

Niết bàn cận bên mình.

373.
Tỳ kheo vào nhà trống,

Tâm yên tĩnh sáng trong,

Khéo quán pháp thiện ròng,

Pháp siêu nhân hưởng lòng.[271]

374.
Chánh niệm người an phận,

Uẩn[272] sinh diệt bất tận,

Người hoan hỷ, vui ngần,

Biết Bất tử tuyệt trần.

375.
Cơ bản pháp thực thi,

Biết đủ, căn hộ trì,[273]

Kiềm chế, giới hành trì,

Dành cho những bậc trí.[274]

376.
Người nên sống thân thiện,

Cử xử khéo tốt hiền.

Vì thế hưởng vui nhiều,

Những sầu khổ diệt tiêu.

377.
Như hoa nhài rụng rơi,

Khô héo úa tàn rồi,

Cũng vậy, tỳ kheo ơi!

Nên làm tham, sân rơi.[275]

378.
Thân yên và tịnh lời,

An tĩnh, tâm định rồi.

Người từ bỏ lạc đời,

Xứng gọi tỳ kheo rồi.

379.
Chính mình sách tấn mình,

Tự mình kiềm chế mình,

Chánh niệm phòng hộ mình,

Tỳ kheo sống hạnh vinh.

380.
Chính mình nương tựa mình,

Tự mình chỗ nương mình,

Vậy nên kiểm tra mình,

Như thương gia ngựa xinh.[276]

381.
Tỳ kheo tín, hỷ lòng,

Pháp Phật hiểu sâu thông,

Chứng đạt cảnh tịnh ròng,[277]

Các hành diệt tịnh lòng.

382.
Tỳ kheo tuy còn trẻ,

Tinh cần hành pháp ghê,

Soi sáng thế gian mê,[278]

Như trăng thoát mây hè.[279]

XXVI. Phẩm Bà La Môn

383.
Hỡi này Bà-la-môn,

Tinh tấn dẹp chấp lòng,

Dục lạc đừng có mong,

Hiểu các hành hoại vong,

Bậc hiểu biết vô song.

384.
Nhờ thi hành định, quán,[280]

Vượt qua đáo bỉ ngạn.[281]

Phiền não diệt tiêu tan,

Bà-la-môn trí quang.[282]

385.
Không bờ ni, bờ tê[283]

Cả hai bờ chẳng mê,

Lìa khổ, thoát não nề,

Bà-la-môn xứng ghê.

386.
Hành thiền, sống trong thanh,

Vô lậu, phận sự thành,

Đích tối thượng đạt nhanh,

Bà-la-môn xứng danh.

387.
Mặt trời chiếu ban ngày,

Đêm chị hằng[284] sáng thay.

Khí giới sáng chàng tây.[285]

Thiền sáng Phạm chí đây.

Vầng quang của Như Lai,

Chiếu sáng đêm lẫn ngày.

388.
Ác diệt gọi Thánh nhân,[286]

Xứng Sa môn trong ngần,[287]

Diệt cấu uế tự thân,

Bậc ấy gọi xuất trần.

389.
Không nên đập Thánh nhân!

Phạm chí đừng nỗi sân!

Đánh Phạm chí hổ thật!

Trả đũa xấu bội phần!

390.
Ðối với Bà-la-môn,

Ðây[288] lợi ích rất lớn.

Khi tâm ái xả buông,

Hãm hại lánh xa luôn,

Thật sự khổ diệt trường.[289]

391.
Với ai thân, khẩu, ý,

Ác hạnh không thực thi,

Ba nghiệp kiềm chế kỹ,

Bà-la-môn diệu kỳ.

392.
Với ai hiểu chân lý,[290]

Của Như Lai diệu kỳ,

Nên cung kính tôn vinh,

Phạm chí như thần linh.[291]

393.
Ðược gọi Bà-la-môn,

Không bởi khổ hạnh ôm,[292]

Hay xuất thân, tông môn,

Ai chân thật, tịnh hồn,[293]

Xứng gọi Bà-la-môn.

394.
Cuộn tóc có ích chi?

Áo da khoác làm gì?

Kẻ ngu phiền cả bì,[294]

Trang điểm ích lợi chi!

395.
Người mặc áo phấn tảo,

Gân lồi, thân xanh xao,

Ðộc thân thiền rừng sâu.

Bà-la-môn Ta trao.[295]

396.
Ta không gọi Phạm chí,

Vì dòng sinh, mẹ quý.

Nếu tính khí kiêu kỳ,

Cùng tham lam, chấp ghì.

Ai không chấp, lụy bi,[296]

Bà-la-môn vinh quý.

397.
Kiết sử[297] đã đoạn tận,

Rung sợ diệt sạch ngần,

Phiền não chẳng buộc chân,

Ta gọi Bậc Thánh Nhân.[298]

398.
Thả đai da,[299]bỏ cương,[300]

Bỏ dây,[301] tuỳ miên trường,[302]

Diệt then chốt,[303] thông thương,[304]

Bậc Thánh Nhân tương đương.[305]

399.
Ai không sân, chịu đựng,

Phỉ báng, đánh, phạt trừng,

Lấy nhẫn làm quân hùng,

Bà-la-môn Ta xưng.[306]

400.
Ai không hận, nhiệt tâm,

Trì giới, tham ái tận,[307]

Thân cuối nhiếp[308] tuyệt trần,

Ta gọi Bậc Thánh Nhân.

401.
Như nước trên sen mai,[309]

Như hột cải kim may,[310]

Người ái không nhiễm say,

Ta gọi Thánh Nhân hay.

402.
Ai trong thế giới này,

Giác ngộ diệt khổ ngay,

Thoát triền và nặng vai,

Bà-la-môn tuyệt thay.

403.
Những ai trí tuệ sâu,

Biết phi đạo, đạo mầu,[311]

Đích vô thượng chứng sâu,

Gọi Thánh Nhân nhiệm mầu.

404.
Người cả hai đều xa,[312]

Thế tục và xuất gia,

Sống ít dục, không nhà,

Xứng Thánh Nhân Ta ca.

405.
Bỏ lực[313] đối chúng sanh,

Dù yếu hay hùng anh,

Không bảo giết, sát sanh,[314]

Xứng Thánh Nhân đã thành.

406.
Thân thiện giữa thù hằn,

Yên bình giữa hung hăng.

Không đắm giữa nhiễm tăng,[315]

Xứng Thánh Nhân trần gian.

407.
Ai diệt được tham sân,

Mạn, ganh tị sạch ngần,

Như hạt cải kim châm,[316]

Bà-la-môn tuyệt trần.

408.
Ai nói lời hoà nhã,

Chân thật, lợi ích tha,

Không xúc phạm ai cả,

Thánh Nhân đáng ngợi ca.

409.
Ai trong thế giới này,

Nhỏ, lớn, xấu, đẹp thay,

Tha chẳng cho không lấy,

Ta gọi Thánh Nhân hay.

410.
Trong ai không mong cầu,

Ðời này hay kiếp sau,

Thoát phiền, chẳng mong cầu,

Bà-la-môn nhiệm mầu.

411.
Trong ai diệt tham ái,

Trí tuệ đánh nghi bại,[317]

Đạt Bất tử trường dài,

Xứng Bà-la-môn hoài.

412.
Ai sống trong đời này,

Thiện, ác chẳng đắm say,

Không sầu, sạch, bụi bay,[318]

Xứng danh Thánh Nhân này.

413.
Ai sạch giống như trăng,

Sáng trong và tịnh lặng,

Hữu ái đã đoạn tận,

Bà-la-môn xứng phần.

414.
Ai vượt lối hiễm nguy,[319]

Chinh phục luân hồi, si,

Bờ kia đạt, thiền trì,[320]

Không tham ái, đoạn nghi,

An tịnh, không chấp ghì,Bà-la-môn vinh quý.

415.
Ai đoạn dục hiện đời,

Bỏ nhà, xuất gia rồi,

Đoạn ái và kiếp tới,[321]

Thánh Nhân ấy tuyệt vời!

416.
Ai diệt tham hiện đời,

Bỏ nhà, xuất gia rồi,

Đoạn tham và kiếp tới,

Bà-la-môn tuyệt vời!

417.
Bỏ trói buộc loài người,

Vượt trói buộc cõi trời.

Mọi ràng buộc thoát rồi,

Gọi Thánh Nhân xứng thôi.

418.
Vui, buồn đã bỏ rồi,

Thanh tịnh, kiếp tới thôi,[322]

Chiến thắng, anh hùng đời,[323]

Nhiếp phục mọi thế giới,

Bậc Thánh Nhân tuyệt vời.

419.
Ai thông hiểu hoàn toàn,

Sinh tử của các hàng,[324]

Không nhiễm, tỉnh, siêu phàm,

Ta gọi Thánh Nhân vàng.

420.
Người ấy sinh về mô,

Trời, người làm sao dò?

Càn-thát cũng nằm co,[325]

Bậc La-hán diệt tro.[326]

Thánh Nhân Ta hoan hô.

421.
Ai quá, hiện, vị lai,

Giải thoát hữu[327] trường dài,

Xả chấp, không đắm say,

Bà-la-môn lành thay!

422.
Bậc ưu tú, quý cao,

Hiền trí và anh hào,

Bậc vô nhiễm, thắng bao,[328]

Giác ngộ, sạch làm sao!

Bà-la-môn phong hào.

423.
Ai hiểu thông tiền kiếp,

Thấy thiên cảnh, khổ biên,[329]

Đoạn sinh[330] đạt hiện tiền,

Đạt thắng trí dung viên,

Bậc hiền trí thần tiên.

Viên mãn đẹp sử thiên,

Đệ tử Ta Thánh Hiền.


Tài Liệu Tham Khảo

1. Bản dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Sài Gòn, Việt Nam, 1996.

2. Bản dịch của Bác Phạm Kim Khánh, 1997. Kỳ Viên Tự tái bản, 2003.

3. Kinh Lời Vàng (thi hóa Dhammapada), Thượng Tọa Giới Đức, Minh Đức-Triều Tâm Ảnh), Huyền Không, Huế, 1995.

4. Một số dịch phẩm khác của một vài dịch giả trong và ngoài nước, Buddhasāsana CD, Tiến Sĩ Bình An Sơn phát hành, Australia.

5. Dhammapada, A Practical Guide To Right Living (Text & Translation) by Ven. Sri Ācariya Buddharakkhita, Buddha Vacana Trust, Maha Bodhi Society, Bangalore-560 009.





































[1] Bò có cặp mắt thau.
[2] Chính người ấy.
[3] An lạc miên viễn.
[4] Hai chiều hướng hay nhị biên.
[5] Phóng túng, lâm ly.
[6] Đế Thích: Magha.
Manavaka: vị lảnh đạo Chư Thiên.
[7] Chế ngự nội tâm.
[8] Trú xứ của thức.
[9] Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
[10] Tức là Quán (vipassanā) mới chứng được.
[11] Đối với các thiền mới chứng.
[12] Chính người kẻ thù đó.
[13] Hướng về mười bất thiện pháp, sát sanh, trộm cắp, tà hạnh….
[14] Thợ làm vòng hoa.
[15] Mang đi.
[16] Các loại hoa thơm: hương già la, chiên đàn, v.v.
[17] Trí tù đọng rất nhiều.
[18] Hành trì khổ hạnh của người ngoại đạo không bằng 1/16 người hiểu pháp hữu vi.
[19] Phân minh rõ ràng.
[20] Ghét.
[21] Diễn thuyết.
[22] Bỏ các dục.
[23] Bậc trí.
[24] Pháp cao thâm.
[25] Áp dụng, thực hành.
[26] Thiện pháp.
[27] Gạt bỏ sau lưng, không luyến tiếc.
[28] Âu sầu.
[29] Ao vườn.
[30] Diệt hay đoạn trừ.
[31] Luôn luôn được chư Thiên quan tâm giúp đỡ.
[32] Vị A La Hán tự chứng biết, không tin ai làm cho giác ngộ.
[33] Hiên ngang.
[34] Thực hành tốt.
[35] Chưa chín muồi.
[36] Chín muồi.
[37] Chín mộng, thành quả.
[38] Tạo ác mỗi ngày.
[39] Tạo những điều hạnh vinh hay điều lành.
[40] Thương tích.
[41] Tung bụi ngược chiều gió thì nó sẽ bay ngược vào mặt của mình.
[42] Thiên giới.
[43] Nghiệp quả.
[44] Thần chết hay tử thần.
[45] Kinh hãi sự chết.
[46] Sai sử người khác làm.
[47] Vũ lực.
[48] Sai người đối phương hay người khác.
[49] Trả đũa.
[50] Ác độc không có trong vị này.
[51] Rơi vào khổ cảnh.
[52] Hoài nghi
[53] Mọi oai nghi tế hạnh.
[54] Tránh roi.
[55] Pháp nguồn gốc, pháp chơn chánh.
[56] Tràn đầy.
[57] Vô minh tràn ngập.
[58] Nhiều tật bệnh.
[59] Tan rã.
[60] Thân ngũ uẩn.
[61] Tuyên thuyết và ca tụng.
[62] Người xây dựng thân ngũ uẩn này.
[63] Tái sinh hoài trong vòng luân hồi.
[64] Ái.
[65] Thân.
[66] Phiền não.
[67] Đức Thế Tôn.
[68] Ngày tháng.
[69] Thích đáng, nghiêm tinh.
[70] Không dễ bị bậc trí phê bình.
[71] Tự điều phục chính mình.
[72] Đạt được sự nương tựa chính mình là điều rất khó đạt.
[73] Kim cương.
[74] Cây tầm gởi thường bám vào các cây khác để sống.
[75] Những điều bất thiện phiền toái.
[76] Liên luỵ, dính líu.
[77] Liêm khiết, thanh tịnh.
[78] Thanh tịnh hay thanh tịnh là do mình chứ không ai khác tạo cho mình.
[79] Triền phược của trần thế.
[80] Phúc lạc mãi theo người ấy.
[81] Chiều hướng hay phương hướng ác.
[82] Hạnh phúc đáp ứng.
[83] Vòm mây đen tối.
[84] Đời sau.
[85] Ghét những ai siêng năng làm phước thí.
[86] Dấu vết.
[87] Như trên.
[88] Cuộc sống an vui, sung sướng.
[89] Pháp của Như Lai.
[90] Đây là những pháp chính chư Phật đã dạy.
[91] Nơi hoang vắng không xô bồ.
[92] Đau khổ ngập tràn.
[93] Bậc trí.
[94] Dục chư Thiên.
[95] Tối thượng và cao sang.
[96] Không đúng.
[97] Thấy một cách ngon lành và trọn vẹn.
[98] Rất đúng.
[99] An lạc không kể xiết.
[100] Họ cùng nhau tinh tấn hành trì.
[101] Hoàn toàn thanh tịnh.
[102] Bệnh thân lẫn bệnh tâm.
[103] Yên sống.
[104] Không có gì là của ta cả.
[105] Hạnh phúc khó sánh.
[106] Ngũ uẩn
[107] Tuyệt vời.
[108] Trang trọng.
[109] Chì có ngườ hành trì mới nếm được mùi pháp hỳ ấy.
[110] Lâng lâng, mê mê man man.
[111] Trung thành và thân cận.
[112] Nắm chặt hỷ ái.
[113] Rất đau khổ.
[114] Endearment.
[115] Sinh sản.
[116] Đoạn tận.
[117] Affection.
[118] Lustfulness.
[119] Attachment.
[120] Đáng thi hành.
[121] Nể vì.
[122] Niết-bàn.
[123] Ba Thánh Quả.
[124] Tâm đã thoát ra khỏi những dục lạc bồn chồn của trần thế.
[125] Bậc đi ngược dòng đời.
[126] Kiếp sau.
[127] Tâm sân sinh khởi.
[128] Không giận.
[129] Người.
[130] Ngay lập tức.
[131] Tha nhân.
[132] Bậc luôn luôn tỉnh thức.
[133] Đừng mong muốn làm những hành động ác thuộc về thân.
[134] Làm những hành động tốt.
[135] Nói những lời tốt lành và lợi ích.
[136] Tác ý thiện.
[137] Ba nghiệp (thân, khẩu và ý).
[138] Đã không tạo thiện nghiệp trong cuộc đời.
[139] Đường dài.
[140] Thợ vàng lọc những vết bẩn bên trong thỏi vàng.
[141] Đống, khối.
[142] Tái sinh vào khổ cảnh.
[143] Tinh cần, chuyên cần.
[144] Lính gác.
[145] Hào hoa phong nhã.
[146] Kiếp sau.
[147] Hổ thẹn.
[148] Lề lối, thói quen.
[149] Biết hổ thẹn.
[150] Mong cầu thực hành hạnh thanh tịnh.
[151] Tha nhân.
[152] Bạn bè trong vô lượng kiếp.
[153] Ngay kiếp này.
[154] Những bất thiện pháp chằng chịt.
[155] Tham ái ngủ ngầm trong hang lạnh.
[156] Phơi bày.
[157] Dấu kỹ kiếp này qua kiếp nọ.
[158] Gian dối dấu bài trong khi chơi.
[159] Vô thường biến đổi.
[160] Hoàn toàn vắng bóng sự trạo cử.
[161] Dùng chánh pháp chí lý.
[162] Thấy pháp qua thân ngũ uẩn.
[163] Lão ngu.
[164] Chân thật và thâm sâu.
[165] Những tâm bất thiện được đề cập trên câu pháp cú 262.
[166] Pháp của Như Lai.
[167] Thấy rõ thân hành hay sự vận hành của thân.
[168] Bậc trí.
[169] Bậc trí hành đúng như cán cân.
[170] Kiếp này và kiếp sau.
[171] Như Lai nói với chư tỳ kheo.
[172] Phiền não còn đầy ắp.
[173] Giữa loài người.
[174] Phiền não ma sẽ kinh sợ.
[175] Phiền não chướng.
[176] Phiền não không buộc ràng.
[177] Con đường thanh tịnh.
[178] Khổ đau.
[179] Thân, khẩu và ý luôn luôn giữ thanh tịnh.
[180] Lời dạy đức Phật ban cho.
[181] Tuệ sẽ không có mặt ở trong ta.
[182] Dục vọng.
[183] Như trên pháp cú 283.
[184] Niết-bàn.
[185] Nguy hiểm.
[186] Dân chúng đang ngủ say.
[187] Đạo lộ tâm linh.
[188] Không sao giải thoát ra khỏi sự thù hận.
[189] Ái dục và mạn.
[190] Thường kiến và đoạn kiến.
[191] 12 xứ.
[192] Đúng là bậc Phạm chí.
[193] Học rộng tài cao.
[194] Hoài nghi.
[195] Giáo pháp của Như Lai.
[196] Tiếp tục đời sống xuất gia.
[197] Trôi lăn.
[198] Giây giưa, lui tới.
[199] Himalaya (Hi mã lạp sơn).
[200] Trong đêm tối.
[201] Tinh cần kiềm chế.
[202] Cả hai người đều tạo những nghiệp bất thiện.
[203] Cả hai kẻ trên đều chết.
[204] Những việc xấu xa.
[205] Giấc ngủ không an lành.
[206] Khổ thì nhiều, nhưng niềm vui chỉ thoáng qua rất là nhanh chóng.
[207] Đừng ngủ với vợ của người khác.
[208] Thề nguyện lung tung.
[209] Ám chỉ phiền não.
[210] Phải vun bồi mỗi ngày.
[211] Khí phách.
[212] Buông lung.
[213] Chấp thủ tà kiến mãnh liệt.
[214] Sin vào cảnh ác thú.
[215] Đi tái sinh cõi lành.
[216] Chịu đựng phỉ báng giỏi.
[217] Rèn luyện, kiềm chế.
[218] Không phải vì những phương tiện trên mà loài người đạt Niết-bàn.
[219] Niết-bàn tối hậu.
[220] Tên của một con voi.
[221] Đô thành, làng xóm.
[222] Tưởng nhớ những bạn voi của nó ở rừng trong quá khứ.
[223] Ăn nhiều vào trong bụng.
[224] Vào ra sinh tử hoài.
[225] Buông lung, phóng đãng.
[226] Chế ngự tâm một cách trọn lành.
[227] Đầm lầy.
[228] Đức hạnh.
[229] Hoang dã.
[230] Không ôm chặc tâm ý ác độc đối với tha nhân.
[231] Lúc lâm chung.
[232] Phước đức.
[233] Khi lâm chung.
[234] Bậc trì giới.
[235] Tham ái ngủ ngầm đàng còn lắng động bên trong tâm của chúng sanh.
[236] Có ba loại tham ái: Dục ái, hữu ái và phi hữu ái, chúng kết hợp với sáu căn và sáu trần trở thành ba mươi sáu dòng ái.
[237] Tiêu tan, đau khổ.
[238] Bị ái tấn công.
[239] Bị mắc bẫy.
[240] Lìa ái dục gia đình, lại chạy theo khổ hạnh rừng núi.
[241] Đoạn tận tham ái.
[242] Cái màn nhện.
[243] Buông xả, buông bỏ.
[244] Quá khứ, hiện tại và vị lai.
[245] Niết bàn.
[246] Cảnh đẹp.
[247] Mạnh mẽ.
[248] Cắt đứt nguyên nhân của sự chấm dứt tái sinh.
[249] Rất đúng để gọi bậc Đại nhân và Đại trí.
[250] Như Lai.
[251] Chúng sanh.
[252] Những ai tìm cầu Niết bàn.
[253] Huỷ hoại.
[254] Đồng ruộng hay ruộng lúa.
[255] Ly tham dục.
[256] Phước báu vô cùng lớn lao.
[257] Bậc ly si.
[258] Bậc ly dục.
[259] Kiếm chế mình trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh.
[260] Lý thuyết và thực hành.
[261] Không ganh tỵ khi thấy người khác thịnh vượng và vinh hạnh.
[262] Sinh tâm ganh tỵ.
[263] Chư thiên tán than và kính nể.
[264] Tỳ kheo.
[265] Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục ái và sân.
[266] Sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử và vô minh.
[267] Tín, tấn, niệm, định và tuệ.
[268] Năm trói buộc : tham, sân , si, mạn và tà kiến.
[269] Vượt qua dóng nước lũ.
[270] Không tinh cần hay tinh tấn, đồng nghĩa với phóng dật.
[271] Đã hưởng được pháp của bậc siêu nhân.
[272] Ngũ uẩn sinh diệt liên tục.
[273] Phòng hộ các căn.
[274] Những vị tỳ kheo có trí tuệ.
[275] Giải thoát khỏi tham và sân.
[276] Như thương gia khéo luyện ngựa đi buôn.
[277] Niết bàn.
[278] Thế gian mê mờ.
[279] Vỉa hè của đám mây đen.
[280] Thực hành thiền Định và thiền Quán.
[281] Niết bàn.
[282] Trí tuệ, quang sáng.
[283] Không chấp đắm vào sáu nội xứ và sáu ngoại xứ.
[284] Mặt trăng.
[285] Chiến sĩ hay binh lính.
[286] Pháp chí hay Bà-la-môn.
[287] Tịnh hạnh.
[288] Sự không trả đũa, trả thù.
[289] Khổ đau đoạn tận miên viền.
[290] Chánh pháp.
[291] Cung kính bậc Phạm chí như người Bá-la-môn thờ Thần lửa.
[292] Không phải hành khổ hạnh.
[293] Tâm tịnh.
[294] Phiền não cả đống.
[295] Ta gọi Bà-la-môn.
[296] Không chấp thủ và chẳng luỵ bi.
[297] Phiền não.
[298] Bà-la-môn.
[299] Sân.
[300] Tham ái.
[301] Tà kiến.
[302] Những phiền não ngũ ngầm.
[303] Vô minh.
[304] Sáng suốt hay trí bừng.
[305] Ngang bằng với Bậc Thánh Nhân.
[306] Xứng danh để Ta gọi Bà-la-môn.
[307] Diệt tận tham ái.
[308] Nhiếp phục.
[309] Lá sen trong buổi ban mai.
[310] Như hạt cải rơi trên đầu mũi kim may.
[311] Phân biệt rõ giữa chánh và tà.
[312] Lánh xa.
[313] Bỏ bạo lực.
[314] Tự mình.
[315] Đắm nhiễm tăng mạnh.
[316] Như hạt cải rơi trên đầu mũi cây kim.
[317] Nhờ trí tuệ, cho nên không còn sự hoài nghi.
[318] Hết phiền não.
[319] Con đường hiễm nguy.
[320] Hành trì.
[321] Đoạn tham dục và hữu ái.
[322] Không còn tái sinh kiếp tới nữa.
[323] Thế giới này.
[324] Tất cả chúng sanh.
[325] Cũng không biết cho nên đành chịu thua.
[326] Phiền não.
[327] Sở hữu.
[328] Chiến thắng tất cả.
[329] Những cảnh khổ.
[330] Chấm dứt tái sinh.

No comments:

Post a Comment